Vì sao người Việt vốn thích nghe và kể chuyện  ma, thích xem phim ma… lại ít sản xuất phim ma là một câu hỏi rất khó để  trả lời.

 

           

 

   Theo thống kê chưa đầy đủ, từ khởi  thủy đến nay, Việt Nam (cả hải ngoại) đã làm được khoảng 700 phim điện  ảnh, trong đó có gần 20 phim có cốt truyện, chủ đề, thể loại… kinh dị,  ly kỳ, rùng rợn – tạm gọi chung là phim ma. Vì sao người Việt vốn thích  nghe và kể chuyện ma, thích xem phim ma… lại ít sản xuất phim ma là một  câu hỏi rất khó để trả lời.

Lịch sử dài, nhưng thưa vắng

Quay đi  ngoảnh lại, phim ma cũng đã có lịch sử gần 75 năm. Theo những ý kiến  chưa có chung cuộc về lịch sử điện ảnh Việt Nam thì cuối tháng 11/1937,  An Nam nghệ sĩ đoàn đã ký một một hợp đồng với The South China Motion  Pictures Company (Công ty Điện ảnh Nam Trung Hoa) để sản xuất bộ phim  rùng rợn đầu tiên là Cánh đồng ma (KB: Đàm Quang Thiện, ĐD: Trần Phì).  Phim này theo kịch bản là để xiển dương cho lý thuyết di truyền trong y  khoa, nhưng đạo diễn người Trung Quốc này đã tự ý chỉnh sửa thành phim  trinh thám rùng rợn, với những ảnh máu me và yếu tố tình dục. Nhà văn  Nguyễn Tuân đã đóng một vai rất nhỏ trong phim này.


Thẩm Thúy Hằng trong phim Giỡn mặt tử thần,  một phim ma
được chờ đón nhưng không có dịp ra rạp


Mấy  năm sau, Nguyễn Văn Đinh đã làm gần như từ A đến Z ba phim, gồm Cô Nga  dạo thị thành (1939), Khúc khải hoàn và Toét sợ ma (1940). Phim Toét sợ  ma được làm với thủ pháp khá ngô nghê, cốt hài hước và châm biếm chuyện  sợ ma.

Bẵng đi mấy chục năm, phim điện ảnh Việt Nam gần như chỉ  làm về hai đề tài là chiến tranh (chủ yếu ở miền Bắc) và yêu đương – tâm  lý xã hội (ở miền Nam). Mãi đến Lệ đá (90 phút, KB: Nguyễn Mạnh Côn,  ĐD: Võ Doãn Châu) do Hãng Cinévina sản xuất năm 1971, thì thể loại phim  kinh dị mới được hồi sinh ở Sài Gòn. Phim đen trắng này có sự tham gia  của Thanh Lan, La Thoại Tân, Đoàn Châu Mậu, Ngọc Phu, Phượng Trang…; đã  đoạt Giải Nhất tại Đại hội Điện ảnh năm 1971. Phim Lệ đá cũng là phim  đầu tay của Võ Doãn Châu (sinh năm 1936 tại miền Trung), sau khoảng 12  năm du học điện ảnh ở Pháp về nước nhưng không làm nghề. Phim này vốn  “phổ” từ truyện ngắn Đại úy Trường Kỳ, nằm trong tập truyện Ba người  lính nhảy dù lâm nạn (1960) của Nguyễn Mạnh Côn.

Đỉnh điểm của  lịch sử phim ma Việt Nam cho đến nay vẫn là Con ma nhà họ Hứa (90 phút,  KB: Nguyễn Phương, ĐD: Lê Hoàng Hoa), với sự tham gia của Bạch Tuyết,  Thanh Tú, Dũng Thanh Lâm, Tư Rọm, Ba Vân, Năm Châu, Tâm Phan, Khả Năng,  Thanh Việt, Minh Ngọc, Tùng Lâm…, Hãng phim Dạ Lý Hương phát hành năm  1973. Tuy khá đơn giản về kỹ xảo nhưng phim đã “nhát ma” được rất đông  khán giả thời bấy giờ, doanh thu cao ngất, giúp cho đạo diễn trở thành  triệu phú. Cũng nên nhớ, những phim bình thường thời đó có mức đầu tư  khoảng 4-5 triệu đồng, đạo diễn được trả 1 triệu là hiện tượng đặc biệt.  Phim này nổi tiếng đến mức tên phim đã trở thành thành ngữ trong dân  gian; được cải lương chuyển soạn rồi ghi hình; ngay cả đạo diễn Lê Hoàng  Hoa cũng đã rục rịch làm Con ma nhà họ Hứa trở lại vào năm 2007, nhưng  chưa thực hiện được vì thiếu đầu tư.

Cũng xin nói thêm, Lê Hoàng  Hoa tên thật Đoàn Lê Hoa (nhiều phim ký Khôi Nguyên), sinh năm 1933 tại  Nha Trang, là đạo diễn kỳ cựu của Việt Nam, từng du học về điện ảnh tại  Mỹ đầu thập niên 1950. Ông đã làm khoảng 30 bộ phim, trong đó có các  phim nổi tiếng như Chân trời tím, Vết thù trên lưng ngựa hoang, Ván bài  lật ngửa (8 tập), Tình không biên giới, Lệnh truy nã, Vĩnh biệt mùa Hè,  Tình nhỏ làm sao quên, Tây Sơn hiệp khách… Ông còn có một phim rùng rợn,  ma quái là Xác chết trên cao nguyên, làm vào thập niên 1990.

Một  phim khác cũng rất được chờ đón là Giỡn mặt tử thần (KB-ĐD: Đỗ Tiến  Đức) nhưng do sự kiện tháng 4/1975, phim không thể ra rạp. Được chờ đón  vì đây là phim ma đầu tiên có Thẩm Thúy Hằng. Sự có mặt của nữ minh tinh  này (dù cát-sê rất cao, thường trên 1 triệu) là một bảo đảm về doanh  thu – ít có phim nào Thẩm Thúy Hằng tham gia mà lại doanh thu thấp. Phim  còn có sự góp mặt của Bảo Ân, Ngọc Đức, Hoàng Mai, Tường Vi, Phương  Uyên… và các danh hài Văn Chung, Tùng Lâm, Thanh Việt, Thanh Hoài.


Phim Mười khi chiếu  ở Việt Nam lại bị cắt 4-5 đoạn rùng rợn, nên càng mờ nhạt hơn


Sau  1975 khoảng 15 năm, Việt Nam không làm một phim ma nào, Ngôi nhà oan  khốc (ĐD: Nguyễn Chánh Tín – Triệu Vũ) và Chiếc mặt nạ da người (ĐD:  Nguyễn Chánh Tín) là sự trở lại nhẹ nhàng của thể loại phim này vào đầu  thập niên 1990. Từ đó đến nay, khoảng 20 năm, Việt Nam (tính cả hải  ngoại) có các phim ma: Oan hồn và Tình yêu bất diệt (ĐD: Victor Vũ,  2005), Người yêu ma (ĐD: Thái Trí Hân, 2007), Mười (ĐD: Kim Taek Gyung,  2007), Đêm trong căn nhà hoang (Trung tâm Thúy Nga, 2007), Suối oan hồn,  Ngôi nhà bí ẩn (2007), Chết lúc nửa đêm, Bốn thí nghiệm đêm tân hôn  (2008, ĐD: Nguyễn Chánh Tín), và cả phim Rh108 đang làm của Bùi Thạc  Chuyên.

Có thể nói, trong khoảng 20 phim ma, kinh dị của Việt  Nam, nổi tiếng và thành công nhất đến nay vẫn là Con ma nhà họ Hứa.  Những phim chưa chiếu hoặc đang làm thì chưa biết kết quả thế nào.

Cách làm và những định kiến

“Việt  Nam chưa thể làm phim ma, phim kinh dị vì chưa có đủ 5 yếu tố chính là:  tiền, kỹ xảo, kịch bản hay, đạo diễn hay và sự kiểm duyệt thông  thoáng”, nhà biên kịch Sâm Thương.

Trên thế giới, phim ma nói  chung đã bén gót đến với nhiều thể loại phim, ngay cả phim tài liệu, nên  phim truyền hình ma cũng không còn xa lạ. Với thủ pháp thắt nút và mở  nút, phim ma có rất nhiều cao trào, nên rất phù hợp với tính chất “hạ  hồi phân giải” của phim truyền hình nhiều tập, sự tò mò thường ở cuối  mỗi tập. Thế nhưng, với quan niệm làm phim truyền hình phải có hình ảnh  “đẹp hơn, lý tưởng hơn” thực tế, nên tại Việt Nam chưa có một bộ phim  nào về chủ đề này. Phim ma, dù có làm đẹp đến đâu, làm để tuyên truyền  rằng ma là bịp bợm thì cũng bị kì thị, vì định kiến sẵn có rằng: đó là  mê tín dị đoan.

Giải thích những lý do yếu kém và thưa vắng của  phim ma, nhà biên kịch kỳ cựu Sâm Thương cho rằng Việt Nam chưa có đủ 5  yếu tố chính là: tiền, kỹ xảo, kịch bản hay, đạo diễn hay và sự kiểm  duyệt thông thoáng. Năm lý do này khiến cho các nhà sản xuất không dám  đầu tư cho thể loại này, vì sợ thua lỗ; nhiều kịch bản mới ở dạng bản  thảo đưa đi kiểm duyệt đã bị cắt xén tùm lum, thành ra ai cũng ngại.

Nhìn  lại nội dung của khoảng 20 phim ma đã làm, phần lớn vẫn làm theo công  thức: có một câu chuyện, một tình huống được cho là ma, là kinh dị…  nhưng rốt cuộc thì không phải, mà là do người làm. Ngay cả Con ma nhà họ  Hứa cũng không phải là ma thật sự, mà là chuyện một cô gái bị bệnh  phong hủi, trông ghê rợn. Chỉ có 2-3 phim thật sự là “ma” hoặc lấy yếu  tố ma quái là trung tâm, ví dụ như phim Mười. Phim này vốn được đầu tư  công phu, quay đẹp, nhưng kịch bản mờ nhạt, nên không mấy thành công,  khi chiếu ở Việt Nam lại bị cắt 4-5 đoạn rùng rợn, thành ra càng mờ nhạt  hơn.

Lịch sử phim ma trên thế giới cho chúng ta thấy chủ đề này  đã thành một thể loại riêng biệt, có nhiều thành tựu, với nhiều thủ pháp  và cách làm, chứ không chỉ có “nhát ma” hay “rùng rợn”. Riêng ở ta,  không những ít phim và thiếu nhân lực chuyên làm thể loại này, mà quan  niệm và cách quản lý cũng còn nhiều lúng túng, thiển cận, nên có lẽ với  câu hỏi tại sao Việt Nam ít sản xuất phim ma thì còn lâu mới được trả  lời xác đáng.

Theo TTVH

Bạn có thích bài viết này không?